Đau bụng là
một trong những dấu hiệu chức năng hay gặp nhất trong các bệnh về tiêu
hoá: nhiều khi chỉ dựa vào triệu chứng đau, người thầy thuốc có thể sơ bộ
chẩn đoán hay hướng về một bệnh nào đó. Tuy nhiên đau là một cảm giác chủ quan,
phụ thuộc nhiều vào cá tính của từng người à không phản ánh hoàn toàn
tình trạng của bệnh, không thể chỉ dựa vào tình trạng đau nhiều hay ít để
đánh giá mức độ bệnh nặng hay nhẹ. Do đó triệu chứng đau chỉ
có tính chất gợi ý đầu tiên khiến cho thầy thuốc dựa vào
đó tiến hành hỏi bệnh và thăm khám chẩn đoán bệnh.
Đứng trước
một người bệnh đau bụng ta phải tiến hành thăm khám lần lượt.
1.1. Hỏi về đặc tính của đau.
1.1.1. Vị trí đầu tiên của đau. Nhiều khi có giá
trị quan trọng trong chẩn đoán. Thường vị trí của đau tương ứng với các
cơ quan bên dưới, thí dụ:
- Vùng thượng vị: dạ dày, tá tràng, đại trang ngang.
- Vùng hạ sườn phải: gan, túi mật…
- Vùng hố chậu phải: ruột thừa… (xem thâm phần phân khu
bụng).
1.1.2. Hoàn cảnh xuất hiện đau: đau do thủng dạ dày thường đột
ngột: đau quặn gan, quặn thận xuất hiện sau khi vận động nhiều…
1.1.3. Hướng lan: có thể lan ra sau lưng, lên ngực, lên vai,
xuống dưới. Đau da dạ dày thường lan ra sau lưng và lên ngực: đau quặn
gan lan lên ngực và lên vai: đau do niệu quản lan xuống bộ phận sinh dục
và đùi…
1.1.4. Tính chất của đau: ta có thể chia thành 5 loại tính chất
đau khác nhau:
- Cảm giác đầy bụng: là cảm giác đầy trướng, nặng bụng, ậm ạch,
khó tiêu…
- Đau thực sự: tuỳ theo từng bệnh, tuỳ theo cảm giác của
từng người bệnh, có thể đau như dao đâm (thủng dạ dày), đau xoắn vặn, đau
nhoi nhói, đau âm ỉ…
- Đau quặn: là cảm giác đặc biệt khi đau từng cơn, ở một vị trí
nhất định, trội lên rồi dịu dần cho đến cơn sau. Ở ruột, cơn đau dịu đi
sau khi trung tiện hoặc đại tiện và đau là do một đoạn ruột bị
trướng hơi đột ngột; hội chứng Koenig: bán tắc ruột. Ở ống tiết như
ống mật, túi mật, nệiu quản, cơn đau quặn là do sự co bóp quá mạnh gây
nên tăng áp lực đột ngột và tạo thành cơn đau quặn gan và quặn
thận.
- Cảm giác rát bỏng: thường là cảm giác nóng bỏng, cồn cào
ở dạ dày; cảm giác này gây nên do tình trạng quá cảm của niêm mạc
dạ dày.
- Hội chứng đau đám rối thái dương: đau dữ dội ở
thượng vị, đột ngột rối loạn tiêu hoá, ảnh hưởng đến tình trạng toàn thân.
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưỡng đến đau: vận động, thời tiết, ăn
uống, thuốc men…
1.2. Hỏi về các biểu hiện kèm theo:
- Các biểu hiện liên quan đến bộ phận có bệnh: nôn
mửa, rối loạn đại tiện, vàng da, vàng mắt, đái máu, đái đục, kinh
nguyệt…
- Các biểu hiện toàn thân: sốt, ngất, trụy tim mạch…
1.3. Hỏi về tiền sử: nghề nghiệp, thí dụ cơn đau bụng chì do ngộ độc chì.
Các bệnh mắc từ trước, giang mai, kiết lỵ… đặc biệt chú ý tới tính chất
tái phát nhiều lần của những cơn đau giống nhau: đau vùng thượng vị có
chu kỳ thường do loét dạ dày hành tá tràng. Đau vùng hạ sườn phải kèm
theo sốt và vàng da tái phát nhiều lần, gặp trong sỏi mật…
2.1. Khám toàn thân (xem thêm bài khám toàn thân): theo dõi mạch,
huyết áp, nhiệt độ, nhịp thở… khám các bộ phận có hệ thống.
Đặc biệt chú ý tới một số tình trạng toàn thân như:
- Tình trạng sốc: gặp trong một số bệnh có tính chất
cấp cứu như thủng dạ dày, viêm tuỵ cấp chảy máu, chửa ngoài dạ con bị vỡ.
- Tình trạng truỵ tim mạch: đối với nguyên nhân gây chảy
máu trong.
- Vàng da, vàng mắt, torng những bệnh về gan mật.
- Tình trạng suy mòn trong những bệnh mạn tính (ung thư, lao…).
- Tình trạng nhiểm khuẩn: viêm màng bụng, áp xe gan…
2.2. Khám bụng ( xem thêm bài khám bộ máy tiêu hoá): kết hợp nhìn, sờ, gõ nghe, và thăm trực tràng, âm đạo.
2.2.1. Đặc biệt chú ý đến một số điểm đau như: điểm ruột
thừa (điểm Mac Burney điểm túi mật (làm nghiệm pháp Murphy). Điểm sườn
lưng, điểm niệu quản…
2.2.2. Một số triệu chứng cấp cứu ở bụng như:
- Thành bụng không di động theo nhịp thở, cứng như gỗ, các cơ
thành bụng nổi rõ, gõ vùng trước gan trong: thủng nội tạng rỗng (dạ
dày, ruột ….).
- Dấu hiệu rắn bò: Hẹp môn vị, tắc ruột hay lồng ruột…
2.2.3. Thăm trực tràng và âm đạo: là động tác rất cần thiết và
quan trọng có thể phát hiện một số tình trạng cấp cứu như: chửa
ngoài dạ con bị vỡ có túi cùng Douglas phồng, rất đau (tiếng kêu
2.2.4. Xem phân, các chất nôn và nước tiểu…
Sau khi hỏi bệnh và thăm khám, tuỳ theo nguyên nhân ta làm
một số xét nghiệm khác nhau. Về điện quang có thể cho biết một số
tình trạng cấp cứu như hình lưỡi liềm hơi trong thủng dạ dày, thủng ruột,
hình mức nước và hơi tong tắc ruột…
Sau khi kết hợp cả ba mặt hỏi bệnh, thăm khám và xét nghiệm, ta
có thể và phải phân biệt ba loại tình trạng đau bụng khác nahu để có thể
có thái độ quyết định xử trí khác nhau.
Gồm những bệnh tiến triển rất nhanh chóng dẫn đến tử vong,
cầnphải chẩn đoán sớm và xử trí bằng phương pháp phẫu thuật kịp thời và
nhanh chóng. Thì dụ: thủng dạ dày, viêm ruột, tắc ruột thừa…
Đó là những cơn đau bụng đột ngột hoặc cơn đau trội lên
của một tình trạng đau bụng kéo dài, thường biểu hiện những bệnh
cần xử trí kịp thời bằng phương pháp nội khoa, không dùng đến phẫu thuật.
Ví dụ: giun chui ống mật, viêm ruột cấp, cơn đau của loét dạ dày
hành tá tràng…
Diễn biến kéo dài hàng tuần, hàng tháng, về phương diện điều trị
cũng đòi hỏi thời gian lâu dài.
Nhiệm vụ của những người thầy thuốc đứng trước một người
bệnh đau bụng là pảhi phân biệt được ba tình trạng đau bụng trên để có
thái độ xử trí kịp thời nhất là phải phát hiện tất cả những trường
hợp đau bụng có tính chất cấp cứu ngoại khoa. Nhưng thực tế nhiều
khi rất khó: thí dụ bệnh loét dạ dày diễn biến kéo dài nhưng có những đợt
đau cấp và ổ loét bị thủng sẽ gây nên những tình trạng cấp cứu ngoại
khoa; vì vậy người thầy thuốc phải thăm khám kỹ lưỡng, theo dõi cẩn
thận để phân biệt và phát hiện kịp thời.
Sau khi phân biệt các tình trạng đau bụng khác nhau, muốn quyết
định thái độ xử trí cần tìm nguyên nhân đã gây nên đau bụng, vì đau
chỉ là một triệu chứng mà bất kỳ tổn thương của một nội
tạng nào trong ổ bụng cũng có thể gây nên, trước khi đi vào phần nguyên
nhân ta cần biết hiện tượng đau được tạo thành do những cơ chế
nào?.
Dựa vào những thí nghiệm người ta thấy đau xuất hiện.
1. Một tạng rỗng ở trong ổ bụng bị căng giãn đột
ngột: căng giãn dạ dày, căng giãn ruột đột ngột.
2. Nhu động co bóp tăng lên quá mức gây nên một áp lực cao
hơn thường: tăng nhu động dạ dày, ruột; tăng co bóp túi mật (hẹp môn vị, tắc
ruột, sỏi mật…).
3. Màng bụng bị đụng chạm kích thích: thủng dạ dày, viêm màng
bụng, chấn thương ở bụng.
4. Những kích thích bệnh lý đối với các nội tạng:
những kích thích này tác động lên các sợi dây thần kinh giao cảm ơ
nội tạng và gây nên đau: apxegan, viêm tuỵ tạng..
Dưới đây chỉ giới thiệu một số nguyên nhân chính gây
nên đau bụng với những dấu hiệu chủ yếu để có một khái niệm rất chung,
rất đại cương về một số bệnh thông thường vì đau bụng là một triệu chứng rất
chung biểu hiện rất nhiều bệnh mà trong phạm vi bài này không có mục
đích đi sâu vào từng bệnh.
Để thuận lợi trong việc thăm khám và chẩn đoán, ta sẽ phân
chia theo vị trí của vùng đau, vì tuỳ theo vị trí xuất phát của đau
bụng ta sẽ có những gợi ý chẩn đoán khác nhau.
1.1. Đau ở vùng thượng vị và phần bụng trên.
1.1.1. Đau bụng có tính chất cấp cứu ngoại khoa
- Thủng dạ dày: đau ở đây đột ngột có đặc điểm:
+ Đau dữ dội vùng thượng vị như dao đâm.
+ Tình trạng toàn thân: sốc, mạch nhanh, hốt hoảng lo
lắng, kèm theo rối loạn tiêu hoá: nôn, bí đại tiện và trung tiện.
+ Khám thành bụng có phản ứng cứng như gỗ, không di động theo
nhịp thở. Gõ thấy mất vùng đục trước gan vì co hơi.
+ Soi Xquang thấy hình liềm hơi trên gan và trên dạ dày.
+ Thường có tiền sử đau dạ dày từ trước, nhưng cũng có khi
không.
- Viêm tuỵ tạng cấp chảy máu.
+ Đau ở vùng thượng vị lan ra sau lưng, thường xuất hiện
đột ngột sau bữa ăn.
+ Tình trạng sốc mạnh: mạch nhanh, huyết áp hạ…
+ Khám thấy bụng có phản ứng hơi căng, ân vùng thượng vị và đặc
biệt là điểm sường lưng, rất đau.
+ Lượng amylaza trong máu tăng cao.
1.1.2. Đau bụng cấp nội khoa.
- Cơn đau dạ dày cấp do loét hoặc viêm: ( kể cả hành tá tràng).
+ Đau nhiều ở vùng thượng vị, có thể kèm theo nôn ra nước chua
và thức ăn.
+ Không có hiện tượng thành bụng co cứng và không mất vùng
đục trước gan.
+ Trong tiền sử thường có những cơn đau theo chu kỳ, xuất
hiện vào những giờ nhất định, liên quan đến bữa ăn trong ngày và vào những mùa
nhất định trong năm.
- Rối loạn vận động túi mật và đường mật.
+ Do túi mật hoặc cơ tròn Lutchkens co bóp không đều, gây
nên những cơn đau quặn gan điển hình tự hạ sườn phải lan lên vao phải
(đau kiều dây đeo quần) nhưng:
+ Không sốt, không vàng da, vàng mắt.
+ Thường xảy ra ở người trẻ.
+ Ta có thể gây lại cơn đau bằng cách ấn nhanh vàovùng túi mật.
- Cơn đau dạ dày trong bệnh tabét và giang mai thần kinh (giai
đoạn III).
+ Đau dữ dội vùng thượng vị đột ngột.
+ Thường kèm theo nôn rất nhiều.
+ Cơn đau mất đi cũng rất đột ngột như lúc bắt đầu,
ngoài cơn đau người bệnh hoàn toàn bình thường.
+ Bệnh này ngày nay rất hiếm gặp.
1.1.3. Những loại đau bụng cấp nội khoa có thể chuyểnthành
tình trạng ngoại khoa, cần phải theo dõi để phát hiện và xử trí kịp thời.
- Áp xe gan:
+ Đau ở vùng gan lan sang ngực, đau không giám cử động
mạnh và thở mạnh.
+ Toàn thân có dấu hiệu nhiễm khuẩn (sốt, mô khô, lưỡi
bẩn, bạch cầu tăng…).
+ Khám thấy gan to và rất đau.
+ Khi ápxe tiến triển vỡ vào ổ bụng, sẽ gây tình trạng viêm màng
bụng cấp: bụng cứng và phản ứng mạnh, bất động không theo nhịp thở, tình
trạng nhiễm khuẩn nặng.
- Sỏi mật:
+ Gây những cơn đau quặn gan điển hình.
+ Tiếp theo là sốt, rồi vàng da.
+ Bệnh có thể có biến chứng gây lan rộng, vỡ vào màng bụng gây
viêm màng bụng giống như ápxe gan.
- Viêm túi mật:
+ Đau vùng túi mật lan lên vai kèm hội chứng nhiễm khuẩn.
+ Khám, ấn vào điểm túi mật rất đau và làm nghiệm pháp
Murphy thấy dương tính: người bệnh hít vào sâu, trong khi đó ta đè
ngón tay sâu dần vào điểm túi mật đến một lúc nào đó, vì đau, người
bệnh sẽ lại dừng đột ngột không dám hít vào nữa: trong viêm túi
mật, nghiệm pháp này dương tính.
+ Viêm túi mật có thể vỡ vào ổ bụng gây nên tình trạng viêm màng
bụng giống như apxe gan, hoặc mật có thể thấm qua vách túi mật, gây nên tình
trạng nhiễm mật màng bụng và cũng có dấu hiệu viêm màng bụng.
- Giun chi ống mật:
+ Đau đột ngột, dữ dội và lăn lộn, ở vùng thượng vị và hạ
sườn phải (người bệnh thường phải nằm chổng mông hoặc dựng hai chân lên tường
cho bớt đau).
+ Khám thấy điểm sườn lưng và mũi ức rất đau.
+ Tiền sử người bệnh có nhiều giun (nôn và đại tiện ra
giun).
Bệnh thường đươc theo dõi và điều trị nội khoa nhưng nếu có biến
chứng (tắc mật, ápxe, thủng…) thì trở thành cấp cứu ngoại khoa, cần phẫu thuật.
1.2. Đau ở vùng hố chậu và bụng dưới.
1.2.1. Đau bụng ngoại khoa:
- Viêm ruột thừa:
+ Đau âm ỉ ở vùng hố chậu phải.
+ Rối loạn tiêu hoá: buồn nôn, nôn bí đại và trung tiện, có khi
ỉa lỏng..
+ Khám ấn vào điểm ruột thừa Mac Burney rất đau, có khi có phản
ứng thành bụng vùng hố chậu phải.
+ Hội chứng nhiễm khuẩn: sốt và bạch cầu trong máu tăng.
Thăm trực tràng hay âm đạo, thấy đau ở vùng túi cùng bênphải.
- U nang buồng trứng bị xoắn:
+ Đau vùng hố chậu dữ dội và đột ngột.
+ Tình trạng sốc.
+ Khám bụng và thăm âm đạo thấy khối u ở một bên hố chậu.
Theo dõi thấy khối u to nhanh.
- Chửa ngoài dạ con bị vỡ:
+ Người bệnh tắt kinh hai, ba tháng, đột nhiên đau ở vùng
hố chậu hoặc bụng dưới, ra máu ở âm đạo.
+ Đặc biệt là có tình trạng chảy máu trong: thiếu máu
nhanh chóng, mạch nhỏ và nhanh, huyết áp hạ, người bệnh bị ngất mỗi lần
ngồi lên hoặc thay đổi tư thế, hồng cầu giảm nhanh.
· Thăm âm đạo, thấy túi cùng sau phồng (túi cùng Douglas)
và rất đau (tiếng kêu
1.2.2. Đau bụng cấp nội khoa:
- Đau bụng kinh (thống kinh): đau ở vùng hạ vị hoặc hố chậu, cơn
đau thừong tương ứng với thời kỳ kinh nguyệt.
- Viêm đại tràng cấp do amip: thường đau ở hố chậu phải và trái
(vùng hồi manh tràng và đại tràmg sichma). Có hội chứng kiết lỵ(
đại tiện ra máu, mũi).
1.3. Đau toàn bụng hoặc đau không vó vị trí gợi ý chẩn
đoán.
1.3.1. Đau bụng cấp ngoại khoa:
- Thủng ruột do thương hàn:
+ Người bệnh đang điều trị hoặc theo dõi bệnh thương
hàn, đột nhiên đau dữ dội ở bụng.
+ Tình trạng sốc: mạch nhanh, nhiệt độ hạ đột ngột (phân
ly mạch nhiệt độ).
+ Khám bụng có phản ứng co cúng, gõ mất vùng đục trước
gan; Xquang thấy hình liềm hơi .
Từ ngày có cloroxit biến chứng này ít gặp.
- Tắc ruột:
+ Đau quặn từng cơn ở bụng.
+ Bụng chướng to dần, nôn nhiều, bí đái và bí trung tiện.
+ Khám thấy các quai ruột nổi cuộn (triệu chứng rắn bò).
+ Xquang thấy mức nước và hơi ở các quai ruột.
Ngoài ra còn một số đau bụng ngoại khoa khác như lồng ruột xoắn
ruột, nhồi máu mạc treo, viêm túi thừa Mecken viêm màng bụng cấp do
lao, do vi khuẩn… nói chung các bệnh này thường ít gặp hơn trong phạm vi bài
này không thể hết được.
1.3.2. đau bụng cấp nội khoa.
- Đau bụng giun: các loại ký sinh vật tiêu hoá đều có thể
gây đau bụng kèm theo rối loạn tiêu hoá, hay gặp nhất là đau bụng do giun đũa
có đặc điểm là:
+ Đau quanh vùng rốn.
+ Buồn nôn và nôn.
+ Trong tiền sử người bệnh có nhiều giun.
+ Thử phân thấy nhiều trứng giun.
- Đau bụng do viêm ruột cấp: do ăn phải thức ăn bị nhiễm
khuẩn, nhiễm độc.
+ Gây những cơn đau quặn bụng, nôn, ỉa nhiều lần.
+ Những dấu hiệu nhiễm khuẩn hoặc nhiễm độc kèm theo.
+ Tình trạng mất nước nhanh chóng có thể dẫn tới tình trạng truỵ
tim mạch.
- Cơn đau quặn thận: hay gặp nhất là do sỏi thận, nhất là
ở sỏi niệu quản.
+ Đau dữ dội ở vùng thận xuất hiện sau khi vận động nhiều.
+ Đau lan xuống dưới, đến bộ phận sinh dục hoặc bẹn.
+ Thường kèm theo các rối loạn tiết niệu khác như
đái ra máu, đái buốt..
- Đau bụng do nhiễm độc chì: những người tiếp xúc với chì lâu
ngày, bị nhiễm độc, có thể xuất hiện những cơn đau bụng kèm theo những dấu hiệu
nhiễm độc khác (thiếu máu, viêm nhiều dây thần kinh…). Đau bụng ở đây có đặc
điểm là:
+ Đau dữ dội lan toả khắp bụng nhưng bụng mềm, không có
điểm đau rõ rệt.
+ Các rối loạn khác: táo bón kéo dài, quanh chân răng thấy
nền xanh, tỷ lệ chì trong máu trong nước tiểu tăng cao.
- Đau bụng do dị ứng: thường gặp nhất là bệnh Schoelein Henoch,
người bệnh thường trẻ tuổi (thiếu niên).
+ Đau bụng dữ dội và đột ngột, có khi đau rất nhiều, gây phản
ứng thành bụng, chướng bụng khiến có thể nhầm với một tình trạng cấp cứu ngoại
khoa.
+ Iả chảy: có khi ỉa phân đen.
+ Bao giờ cũng đau, sưng các khớp, chảy máu dưới da thành nhiều
kiểu các nốt máu ở dưới chi dưới, nhất là quanh các khớp cổ chân và
đầu gối.
- Đau bụng do thiếu canxi (suy cận giáp trạng, ăn thiếu canxi,
mất nhiều can xi…).
+ Đau bụng dữ dội kèm theo ỉa lỏng do các cơ trơn của dạ dày và
ruột bị co.
+ Bao giờ cũng có những biểu hiện ở các chi gây nên nhưng
cơn co cứng (ban tay đỡ đẻ, chân bàn đạp).
+ Khám thấy dấu hiệu Chyosyek và thử máu thấy Ca+ giảm.
- Đau bụng ở bệnh nhiễm khuẩn: một số bệnh nhiễm khuẩn có thể gây đau bụng như cảm, sốt rét, thương hàn. Thường phối hợp với triệu ch